Dưới đây là một số nội dung chính trong bài phân tích Les îles Spratley et Paracels của tác giả Laurent Garnier đăng trên website Bộ Quốc Phòng Pháp.
Những thách thức
1- Mở rộng vùng đặc quyền kinh tế (EEZ):
Như
chúng ta đã biết, theo luật quốc tế, việc một Nhà nước sở hữu một lãnh
thổ trên biển sẽ cho phép có những đặc quyền đối với một phạm vi lãnh
hải và EEZ. Việc các Nhà nước xung quanh Biển Đông tranh giành quyền sở
hữu các đảo nhỏ và đảo san hô không có người ở và không thể sinh sống
được tại Trường Sa và Hoàng Sa trước hết không phải nhằm giành chủ quyền
các hòn đảo này mà là nhằm mở rộng EEZ. Chính vì lý do này, Trung Quốc,
nước có EEZ rộng 880.000 km2 (Mỹ có EEZ rộng 12 triệu km2, Nhật 4,4
triệu km2, Pháp 11 triệu km2) đang dòm ngó 3,5 triệu km2 Biển Đông.
2- Các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hải sản:
Hai
quần đảo trên dồi dào các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trữ lượng cá
ước tính nhiều triệu tấn, các nguồn hải sản phong phú (các loài hải sản
có giá trị cao như tôm hùm, rùa, đồi mồi, bào ngư quý hiếm…). Ngoài sự
hiện diện của nguồn phốt phát trên các hòn đảo còn tiềm ẩn trữ lượng lớn
các mỏ kim loại dưới đáy biển. 10% trữ lượng cá của thế giới nằm tại
Biển Đông.
3- Kiểm soát các tuyến hàng hải thương mại quốc tế:
Biển
Đông bao quát nhiều eo biển: Eo biển Malắcca nằm giữa bán đảo Malaixia
và đảo Sumatra của Inđônêxia, nối biển Andaman ven Ấn Độ Dương với Biển
Đông tại phía Nam; eo biển Sonde chia cắt các đảo Java của Inđônêxia với
đảo Sumatra; eo biển Lombok nối biển Java và Ấn Độ Dương, chia cắt các
đảo Bali và Lombok của Inđônêxia; eo biển Macassar chia cách phía Tây
đảo Borneo và phía Đông đảo Sulawesi. Với chiều rộng trung bình 15 km và
dài khoảng 800 km, eo biển này cho phép thông thương giữa biển Celebes
và biển Java; eo biển Balabac nối biển Sulu với Biển Đông. Eo biển này
chia cách đảo Balabac (thuộc tỉnh Palawan của Philíppin) với các đảo nằm
ở phía Bắc của Borneo, thuộc bang Sabah của Malaixia, rộng 55 km; eo
biển Luzon nằm giữa các đảo Luzon và Đài Loan; eo biển Đài loan, giao
giữa quần đảo này với Trung Quốc đại lục.
Biển
Đông là một ngã tư thông thương của các tuyến hàng hải thương mại quan
trọng bởi đây là tuyến ngắn nhất nối giữa Bắc Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Trước tiên liên quan đến tuyến vận chuyển năng lượng, eo biển
Malắcca vận chuyển nhiều dầu mỏ gấp 6 lần kênh đào Xuyê và nhiều hơn 17
lần kênh đào Panama. Biển Đông là nơi vận chuyển 2/3 nguồn năng lượng
của Hàn Quốc, 60% nguồn năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, 80% nhập
khẩu dầu thô của Trung Quốc, tức hơn một nửa nhập khẩu năng lượng của
khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh đó, việc nắm quyền kiểm soát hai quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa sẽ giúp kiểm soát hầu như một phần lớn EEZ và
tuyến thương mại quan trọng hàng đầu thế giới.
4- Các nguồn tài nguyên dầu khí:
Theo
tác giả Robert D. Kaplan, Biển Đông có trữ lượng dầu thô đạt 7 tỷ thùng
(so với 1.383 tỷ thùng trên đất liền toàn thế giới theo tính toán của
tập đoàn BP năm 2010, chiếm 0,5% trữ lượng dầu của thế giới) và có trữ
lượng khí đốt đạt 25.000 tỷ m3 khí (so với 187.100 tỷ m3 khí trên đất
liền toàn thế giới, chiếm 13,4% trữ lượng khí đốt toàn cầu).
5- Phạm vi triển khai một hạm đội tàu ngầm:
Biển
Đông là tuyến hàng hải thương mại ưu tiên, thậm chí cốt yếu giữa Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương. Không chỉ có tầm quan trọng về thương mại,
Biển Đông còn chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược quân sự, đặc
biệt đối với Trung Quốc. Chúng ta phải thừa nhận là Trung Quốc đang tăng
cường khả năng của các đội tàu ngầm trong khu vực, đặc biệt là việc
nước này xây dựng căn cứ tàu ngầm tại cảng hải quân Tam Á ở phía Nam đảo
Hải Nam. Theo tướng Schaeffer, dường như tham vọng của Trung Quốc tại
các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa hay các quần đảo khác cũng như các vùng
nước sâu tại Biển Đông không nhằm mục đích nào khác ngoài bảo đảm cho
nước này một khu vực triển khai an toàn đội tàu ngầm tấn công. Dù bất kể
thế nào Biển Đông vẫn là vùng biển xung quanh Trung Quốc có vùng nước
sâu cho phép tàu ngầm nước này dễ dàng tiến ra Thái Bình Dương.
Tình trạng tranh chấp
1- Thiếu vắng giải pháp đạo đức?
Tính
chất nghiêm trọng của cuộc xung đột này là thiếu một giải pháp đạo đức.
Nếu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II là cuộc chiến không khoan nhượng
chống chế độ cực quyền thì không một nước chủ chốt nào liên quan đến
những căng thẳng tại Biển Đông có thể bị coi là hiện thân của sự xấu xa
hoàn toàn. Do đó, cuộc chiến của cái tốt chống cái xấu đang dần thay thế
bằng cuộc đối đầu giữa các chủ nghĩa dân tộc duy lý mà chúng ta có thể
chứng kiến tại Biển Đông với câu nói: “Kẻ mạnh có thể làm điều mình muốn
và kẻ yếu phải chịu điều cần phải chịu”. Nếu có khả năng xảy ra một
cuộc tranh chấp thì cũng chỉ hạn chế ở một số cuộc đụng độ lẻ tẻ và
không dẫn tới một cuộc chiến tranh quy mô lớn. Cũng cần phải thấy các
cuộc đụng độ đó sẽ không gây ra nhiều lo ngại song chất lượng vũ khí sẽ
quyết định cuộc đối đầu. Tình hình mong muốn nhất là duy trì quy chế
nguyên trạng do sự cân bằng sức mạnh, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc,
cũng như những gì Ôxtrâylia kêu gọi.
2- Một giải pháp pháp lý?
Mặc
dù thiếu vắng giải pháp đạo đức song vẫn tồn tại một luật pháp quốc tế,
đặc biệt như những gì Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm
1982 ký ở Montego Bay mô tả. Công ước này không thể giải quyết toàn bộ
mọi cuộc xung đột và đối đầu, xong đề ra một khung cảnh luật hợp pháp,
trong đó mọi tranh chấp trên có thể được giải quyết theo các quy tắc
lãnh hải và EEZ mà không phải cần tới đối đầu vũ trang. Công ước cũng là
một tư liệu gốc về các luật lệ quy định các hoạt động ngoài khơi. Các
nước có thể yêu cầu mở rộng EEZ trên thềm lục địa của mình. Đó là điều
mà Malaixia và Việt Nam đã làm năm 2009. Nhưng do luật pháp quốc tế
không đủ nên hành động phối hợp giữa Malaixia và Việt Nam đã làm Trung
Quốc không hài lòng. Trung Quốc sau đó đã gửi một công hàm lên Tổng thư
ký Liên hợp quốc nhằm chính thức hóa lập trường của nước này đối với yêu
sách “đường lưỡi bò” trên Biển Đông, một quan điểm từ trước đến nay
chưa được công nhận chính thức. Tướng Schaeffer xác nhận hành động của
Trung Quốc đi ngược lại với điều 89 của UNCLOS, theo đó “không một Nhà
nước nào có thể đòi hỏi một khu vực bất kỳ ngoài biển khơi làm chủ quyền
riêng”. Cũng cần phải nhấn mạnh vai trò của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN). Tuy nhiên, các điều luật trong công ước của LHQ hay rộng
hơn là hành động của cộng đồng quốc tế không đủ đề ngăn chặn mọi hành
động hiếu chiến từ các đối tượng trong khu vực, ngay cả những nỗ lực của
ASEAN. Chúng ta có thể nhắc đến Tòa án tư pháp quốc tế, song dù cố gắng
cũng không thể triệu tập hết các nước liên quan đến tranh chấp. Tuy
nhiên, dường như giải pháp của các nước liên quan Biển Đông sẽ mang tính
chính trị hơn là tư pháp và có thể cả quân sự.
3- Các sự kiện mới đây cho thấy thái độ hiếu chiến gia tăng của Trung Quốc
Những cuộc xâm lược trên thực địa
Chúng
ta thấy từ năm 2009 một sự gia tăng xâm lược của Trung Quốc trên Biển
Đông. Không chỉ có vậy, Lực lượng hải quân của Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc (PLAN) không ngừng gia tăng các hành động hăm dọa, các hành
động nhằm duy trì sự hiện diện tại Biển Đông. Cùng với đó là các đơn vị
dân sự như lực lượng hải giám (CMS), được trang bị vũ khí từ PLAN, không
ngừng quấy rối các tàu thăm dò dầu khí. Mọi hành động của Trung Quốc
đều núp dưới vỏ bọc dân sự và được hải quân Trung Quốc hiện diện gần đó
bảo vệ. Bên cạnh sự hiện diện hải quân, Trung Quốc còn thực hiện các vụ
tấn công mạng. Đã có hơn 200 trang mạng của Việt Nam bị tin tặc tấn công
vào tháng 6 năm 2011.
Những hành động hung hăng chống Mỹ
Những
va chạm không chỉ diễn ra giữa Trung Quốc với các Nhà nước khu vực. Từ
năm 2001 đã xảy ra 3 vụ va chạm giữa Mỹ và Trung Quốc: Tháng
4/2001, một máy bay trinh sát của Mỹ (EP3-Orion) đã va chạm với một báy
bay quân sự Trung Quốc. Mặc dù vụ này xảy ra ngoài EEZ của Trung Quốc
song người Trung Quốc lại quả quyết rằng người Mỹ đã vi phạm không phận
nước mình. Người Trung Quốc cho rằng họ có quyền trên vùng không phận
của EEZ. Điều này hoàn toàn đi ngược lại với luật pháp quốc tế.
Tháng
3/2009, 5 tàu của Trung Quốc đã ngăn cản tàu thăm dò đại dương USNS
Impeccable của Mỹ. Tàu Impeccable khi đó đang thực hiện thăm dò tại khu
vực gần căn cứ tàu ngầm Tam Á, song ở ngoài khơi (ngoài 12 dặm). Sự kiện
này một lần nữa cho thấy tầm quan trọng chiến lược của khu vực đối với
các tàu ngầm Trung Quốc và thể hiện sự bành trướng chủ quyền của Trung
Quốc đối với EEZ.
Tháng
6/2009, một tàu ngầm Trung Quốc đã mắc vào đường cáp định vị sóng âm
của tàu chiến Mỹ USS John McCain tại Scarborough Reef, một khu vực chiến
lược mà các tàu ngầm Trung Quốc qua lại. Trung Quốc đã lợi dụng cơ hội
này để gia tăng sức ép ngoại giao ngăn cản hải quân Mỹ hiện diện tại
Biển Đông.
Một quan điểm ngoại giao mập mờ của Trung Quốc
Không
hài lòng với việc chiếm biển, Trung Quốc cũng đang chiếm cả không gian
ngoại giao. Không ngại mâu thuẫn với chính mình, Trung Quốc đang nuôi
tham vọng đôi khi duy trì ý định hòa giải và hòa bình hơn trong khi vẫn
khẳng định chủ quyền trên Biển Đông. Trong ý đồ chính thức hóa “đường
lưỡi bò”, Bộ Ngoại giao Trung Quốc năm 2011 đã nói đến “chủ quyền không
thể tranh cãi” của Trung Quốc tại Biển Đông. Đại sứ Trung Quốc tại
Philíppin Lưu Kiến Siêu đã “khuyên các nước đòi hỏi chủ quyền tại Biển
Đông” không tiếp tục khai thác dầu khí tại các “vùng lãnh hải của Trung
Quốc” khi chưa được phép của Bắc Kinh.
Mặt
khác, Trung Quốc lại thể hiện bộ mặt hòa bình. Bộ trưởng Quốc phòng
Trung Quốc Lương Quang Liệt ngày 5/6/2011 tại Hội nghị Shangri-La ở
Xinhgapo đã tuyên bố: “Trung Quốc không có ý định đe dọa bất kỳ nước
nào”. Qua quan điểm ngoại giao hai mặt này của Trung Quốc, rất thú vị
khi theo dõi những tuyên bố của Trung Quốc khi mua tàu sân bay Varyag
nhằm mục đích huấn luyện. Được đặt tên lại là Thi Lang, tàu này đã thực
hiện các vụ thử nghiệm trên biển vào tháng 8/2011 và hải quân Trung Quốc
đang xây dựng tàu sân bay thứ hai. Chúng ta thừa nhận rằng với việc đổi
hướng luật pháp quốc tế một cách tranh cãi để có lợi cho mình, Trung
Quốc đang tự cho mình quyền sở hữu phạm vi lãnh hải trong “đường lưỡi
bò”.
4- Những lựa chọn của các Nhà nước Đông Nam Á trước sự bành trướng của Trung Quốc
Cần tới Oasinhtơn
Do
hạn chế về phương tiện quốc phòng, ý định lớn của các “anh chàng David”
Đông Nam Á là hướng về phía Mỹ trước “gã khổng lồ Goliah” Trung Quốc.
Philíppin dựa vào Hiệp định phòng thủ chung năm 1951, theo đó Oasinhtơn
cam kết cung cấp cho Philíppin thiết bị quân sự. Hải quân Mỹ cũng phối
hợp với hải quân Philíppin tổ chức các cuộc tập trận chung hàng năm. Đối
với Hà Nội thật không đơn giản. Do không thể công khai hướng tới
Oasinhtơn, chiến lược của Việt Nam là công khai nhất có thể liên quan
đến những hành động quấy rối mà mình là nạn nhân từ phía Trung Quốc để
nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế. Ngày 9/6/2011, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố trước công chúng rằng chủ quyền của Việt Nam
đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là không thể tranh cãi và
“sẽ bảo vệ bằng các lực lượng vũ trang”. Những cuộc trao đổi giữa hải
quân Mỹ và Việt Nam ngày càng gia tăng. Mỹ cũng hỗ trợ Xinhgapo, Thái
Lan và ngày càng tăng cường quan hệ với Inđônêxia và Malaixia. Mỹ cũng
đã quay trở lại Ôxtrâylia. Dường như Mỹ luôn có khả năng là đối trọng
với hành động của Trung Quốc ngay cả khi Mỹ đang bước vào giai đoạn bị
hạn chế ngân sách quốc phòng.
Hướng tới một cuộc chạy đua vũ trang
Trong
bối cảnh này, các nước Đông Nam Á đang tìm cách tăng cường khả năng cho
hải quân quốc gia. Từ năm 2000, nhập khẩu vũ khí của Inđônêxia đã tăng
84%, Xinhgapo tăng 146% và nước này đang tìm cách hiện đại hóa hạm đội
tàu ngầm, Malaixia tăng 722% và vừa mới thiết lập một căn cứ tàu ngầm
tại Borneo để hướng ra Biển Đông. Căn cứ này dành cho 2 tàu ngầm
Scorpène mua của Pháp. Malaixia tháng 12/2011 đã mua của Pháp 6 tàu hộ
tống Gowind. Việt Nam đã mua 6 tàu ngầm lớp Kilo trị giá 1,4 tỷ euro và
các máy bay tiêm kích trị giá 700 triệu euro của Nga.
5- Thái độ của cộng đồng quốc tế
Quan điểm của Pháp
Đối
với Pháp, mọi tranh chấp đều phải dựa vào luật pháp quốc tế. Pháp bày
tỏ ủng hộ bộ quy tắc ứng xử do ASEAN đề xuất. Hơn nữa, trong nỗ lực giảm
thiểu căng thẳng, Pháp đã đề xuất tổ chức hội thảo bao gồm cả Liên minh
châu Âu và ASEAN dưới dạng các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm quản lý
các khu vực hàng hải chung.
Bước ngoặt cuối cùng là quan điểm của Mỹ
Ngoài
những vụ va chạm của các tàu USNS Impeccable, USS John McCain, việc
tháng 3/2010 Bắc Kinh coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi quốc gia”, ngang
với Đài Loan và Tây Tạng đã làm gia tăng mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung
Quốc. Điều này đã đẩy người Mỹ chính thức cam kết sâu hơn vào khu vực
với tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Hội nghị diễn đàn khu
vực ASEAN ngày 23/7/2010 khi xác định: “Mỹ có lợi ích quốc gia trong tự
do lưu thông hàng hải, tự do tiếp cận các hải phận chung tại châu Á, và
tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Đông”. Quan điểm của Mỹ là chính
thức không tham gia những yêu sách lãnh hải song bày tỏ quan tâm đến
nguy cơ dẫn đến các bên đối đầu làm ảnh hưởng tới tự do lưu thông hàng
hải.
Kết luận
Trung
Quốc tỏ thái độ phức tạp giữa lập trường xoa dịu và hành động gây hấn
tại Biển Đông. Luật biển theo kiểu Trung Quốc và cách thể hiện của Bắc
Kinh là những thách thức chiến lược. Trung Quốc đã hiểu rõ và đang sử
dụng mưu đồ để mở rộng luật này phục vụ lợi ích riêng. Cách tiếp cận tư
pháp liên quan các vấn đề Biển Đông phải được hoàn thiện từ cách đặt vấn
đề ngoại giao và hàng hải. Trung Quốc có tham vọng giải quyết với các
bên liên quan ở Biển Đông một cách song phương chứ không phải đa phương
như phần lớn các đối tác và cộng đồng quốc tế mong muốn. Do đó, việc Mỹ
quay trở lại khu vực đánh dấu một bước ngoặt trong các sự kiện. Cuộc
chơi sẽ thận trọng hơn.
Bài gốc: Les îles Spratley et Paracels
Theo Cesm.marine.defense.gouv.fr
Viết Tuấn (gt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét