Năng
lực hải quân Trung Quốc đang ngày càng phát triển, tuy nhiên tương quan
giữa năng lực tác chiến gần bờ và xa bờ của Trung Quốc lại tồn tại
khoảng cách khác biệt rất lớn, và sẽ còn một khoảng cách rất dài để theo
kịp Mỹ. Giải quyết và hiểu thực sự bản chất của vấn đề này sẽ góp phần
tránh xung đột đối đầu quân sự Mỹ - Trung cũng như sự xuất hiện của chủ
nghĩa bá quyền.
Theo
chuyên gia nghiên cứu hải quân Mỹ Andrew Erickson và Gabe Collins (bài
nghiên cứu được dịch và đăng trên báo Trung Quốc ngày 15/03/2012) đã
nhấn mạnh, sức mạnh lực lượng hải quân Trung Quốc trong những năm gần
đây đã đạt được sự phát triển nhanh chóng, tuy nhiên tương quan giữa
năng lực tác chiến gần bờ và xa bờ của Trung Quốc lại tồn tại khoảng
cách khác biệt rất lớn. "Hải quân xa bờ" được thiết kế với mục đích tác
chiến xa bờ phải mất rất nhiều năm nữa mới đủ để có thể trở thành mối đe
dọa thực sự đối với Mỹ. Ông nhấn mạnh, nếu có thể giải quyết tốt vấn đề
này một cách khôn ngoan, sẽ có khả năng góp phần giảm tránh những cuộc
đối đầu về quân sự cũng như sự xuất hiện của chủ nghĩa bá quyền; còn nếu
ngược lại, ắt sẽ khiến cho cục diện căng thẳng lại ngày một leo thang.
Trong
bài viết của mình ông nhấn mạnh, thế kỷ 21, cùng với sự tồn tại đan xen
trong quá trình triển khai giữa cạnh tranh và hợp tác về các lĩnh vực
xuất phát từ năng lực sức mạnh quốc gia của hai cường quốc Trung - Mỹ
tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, quan hệ giữa hai nước Mỹ - Trung
càng trở nên vô cùng quan trọng trong hệ thống quan hệ quốc tế. Mặc dù
giữa hai nước có vô số các lợi ích chung quan trọng, đồng thời ngày càng
ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau (đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế),
tuy nhiên trong vấn đề an ninh mang tính chất quan trọng giữa hai nước
lại tồn tại những khác biệt vô cùng lớn. Mặc dù song phương đã cố gắng
nỗ lực cũng như có những sự nhẫn nại kiềm chế hết sức có thể, có khả
năng bài trừ được những khoảng cách khác biệt này, thế nhưng giữa hai
nước Mỹ - Trung vẫn tồn tại những khả năng về những nguy cơ đe dọa đôi
khi có thể phát sinh (tương tự như sự kiện máy bay trinh thám EP-3 xảy
ra vào năm 2001), đồng thời không có biện pháp nào có thể hoàn toàn bài
trừ khả năng xảy ra xung đột. Nếu muốn tránh những xung đột này, phương
pháp tốt nhất chính là tìm hiểu bản chất và cái giá phải trả cho những
mầm mống xung đột đó.
Cần
thiết phải chỉ ra rằng, năng lực sức mạnh, nền chính trị và lối hành xử
của Mỹ đều là những bộ phận chủ đạo đại diện cho các bước đi chiến lược
của nước này. Cách lý giải và những lo lắng đối với bộ phận chủ đạo này
của chính phủ Bắc Kinh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lối hành xử của toàn
Trung Quốc, tuy nhiên nó lại ảnh hưởng ngược lại đến chính quyết sách
của Mỹ.
Gần bờ: Từ chiến lược Trung - Mỹ đến động thái quân sự
Xuất
phát từ góc độ về những tiềm năng tiến bộ đạt được trong các lĩnh vực
khác của hai nước Trung - Mỹ, trong một tương lai có thể tiên đoán được,
đối với các vấn đề liên quan đến khu vực gần bờ (bao gồm Hoàng Hải,
Biển Hoa Đông, Biển Đông) hay các chuẩn mực được đặt ra đối với nhiều
vấn đề thì Trung Quốc và Mỹ không thể có khả năng đạt được sự thông cảm
tương hỗ cho nhau. Những đối tượng liên quan đến đại bộ phận lãnh thổ mà
Trung Quốc tuyên bố cũng như những tuyên bố chủ quyền liên quan đến các
khu vực xảy ra tranh chấp đều thuộc phạm vi các khu vực lãnh hải gần
bờ. Ở nơi đó, chính phủ Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo
bao gồm đảo Đài Loan, đảo Điếu Ngư của biển Hoa Đông hay quần đảo
Trường Sa của Biển Đông cũng như các loại đảo và bãi đá khác thuộc quần
đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã dẫn chứng quy định từ "Công ước Luật Biển
của Liên Hợp Quốc" (UNCLOS) năm 1982, tuyên bố khu vực lãnh hải 200 hải
lý nằm bao quanh các loại đảo này gọi là các vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ). Trong thời điểm hiện tại, các bên tham gia ký kết ủng hộ công ước
này đã lên tới 161 nước, tuy nhiên trong số các nước này lại không bao
gồm Mỹ. Chính điều này đã hạn chế đến mức nghiêm trọng tầm ảnh hưởng
cũng như năng lực lãnh đạo của Mỹ đối với lĩnh vực mang tính chất quan
trọng về các luật biển quốc tế.
Các
tuyên bố đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc luôn luôn hoặc là tồn tại
những tranh chấp, hoặc là xuất hiện một cách trùng lặp chồng chất lên
nhau cùng với những tuyên bố chủ quyền của các nước láng giềng khác.
Điều này càng dẫn đến việc tăng thêm những mâu thuẫn của các bên xung
quanh các vấn đề liên quan đến sự lý giải và cách giải thích đối với
những lối hành xử như thế nào trong việc triển khai phạm vi các vùng đặc
quyền kinh tế dưới sự cho phép của pháp luật. Ví dụ, 23 tập đoàn do 23
quốc gia tổ hợp thành trong 192 nước thành viên của Liên Hợp Quốc đều
cùng nằm dưới bàn tay lãnh đạo dẫn dắt của Trung Quốc, các nước thuộc
quần thể thiểu số này muốn tiến hành lý giải về "Công ước Luật biển của
Liên Hợp Quốc", để từ đó hạn chế các lực lượng quân sự nước ngoài xâm
nhập vào Trung Quốc và tuyên bố phạm vi địa phận vùng đặc quyền kinh tế
cũng như khu vực biên giới trên không. Nếu như biện pháp đưa ra này được
thực thi, thì Trung Quốc sẽ có khả năng ngăn cấm được các lực lượng
quân sự nước ngoài tiến hành triển khai các hoạt động quân sự trong các
khu vực hải phận chủ yếu của toàn bộ Biển Đông. Từ đó, sẽ tạo ra sự uy
hiếp đe dọa đối với một số quá trình tự do vận chuyển hàng hải của các
nguồn tài nguyên năng lượng cũng như sự lưu thông các phương tiện tàu
thuyền mang tính chất quan trọng nhất trên toàn thế giới. Nếu tiếp nhận
quan điểm về quyền sử dụng các vùng đặc quyền kinh tế của bộ phận thiểu
số đưa ra này, sẽ có khả năng xuất hiện những tiền lệ mới, khiến cho 38 %
toàn bộ vùng biển và đại dương sẽ đều được gọi thành vùng đặc quyền
kinh tế, từ đó kéo theo việc xuất hiện những mặt hạn chế kìm hãm tương
tự như vậy.
Đọc toàn bộ bản dịch tại đây
Andrew Erickson, Chuyên gia nghiên cứu Hải quân Mỹ
Người dịch: Đinh Thị Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét